Đức Phật dạy bảo chúng ta tu hành có ba cương lĩnh lớn, đó là tam học Giới, Định, Tuệ. Do giới được định. Giới là phương pháp, thủ pháp, tuân thủ phương pháp của Phật mà tu, gọi là giữ giới, trì giới. Tuân thủ phương pháp tu học thì sẽ dễ dàng được định. Định lâu sẽ khai trí tuệ. Thử nghĩ, tu một pháp môn dễ được định? Nhiều bạn đồng tu dụng công rất nhiều, rất nỗ lực hành thời khóa sớm tối, tụng rất nhiều bộ kinh, thuộc nhiều chú, và biết bao nghi thức quy tắc khác, nói chung bận bịu tít trong hai giờ như không thể nào bận hơn được. Tu hành như vậy mấy mươi năm, thành thật mà nói, vẫn không bằng người niệm một câu A Di Đà Phật miên mật chỉ trong vài tháng. Chuyên tâm niệm một câu A Di Đà Phật, không nghi ngờ, không xen tạp, không gián đoạn, chỉ cần ba tháng là tâm tự tại mát mẻ. Còn hơn người mỗi ngày niệm mấy mươi bộ kinh chú, niệm tất cả các danh hiệu chư Phật Bồ Tát suốt mấy mươi năm, nhưng tâm vẫn loạn động như thường.
Chúng tôi đã khuyên nhiều vị đồng tu niệm một vị Phật A Di Đà, họ không dám tiếp nhận vì băn khoăn rằng: "Tôi niệm biết bao nhiêu Phật Bồ Tát trong nhiều năm, bây giờ không niệm các ngài, các ngài sẽ trách". Như vậy họ sợ đắc tội. Quan niệm này hoàn toàn sai lầm. Nghĩ như vậy là chúng ta dùng tâm phàm phu mà đo lường Phật Bồ Tát, cho rằng Phật Bồ Tát không khác gì so với chúng ta. Chúng ta không niệm các ngài, các ngài sẽ trách, chúng ta sẽ đắc tội với các ngài! Nếu tâm lượng của Phật Bồ Tát như vậy, các ngài sao có thể thành Phật? Nghĩ như vậy là xem thường Phật Bồ Tát. Chính tâm đó mới tạo tội nghiệp, là đại bất kính đối với Phật Bồ Tát.
Thậm chí không cần nói đến Phật, Bồ Tát mà chỉ cần nói đến các A La Hán vốn đã kiến tư phiền não đoạn. Dù chúng ta làm nhục hay sát hại A La Hán, A La Hán cũng tuyệt đối không giận, mà vẫn cứ yêu quí chúng ta, như vậy mới gọi là A La Hán. Nếu sân giận thì đó là yêu ma quỉ quái. Phật Bồ Tát, A La Hán tuyệt đối không giận nếu chúng sanh đắc tội với các ngài. Do đó cho rằng, trước đây niệm nhiều danh hiệu Phật Bồ Tát, bây giờ không niệm nữa, Phật Bồ Tát sẽ quở trách, giáng họa. Nghĩ vậy xem tội chúng ta cỡ nào? Có tu hành công phu làm sao tiến bộ được?
Học Phật việc trước tiên phải rõ lý, làm sáng tỏ chân tướng sự thật. Chư Phật Bồ Tát đều khuyên niệm Phật A Di Đà. Phật Thích Ca Mâu Ni trong kinh Vô Lượng Thọ xưng tán Phật A Di Đà là "ánh sáng tột cùng, vua của chư Phật". Thế Tôn khen như vậy là thay mặt cho mười phương ba đời, tất cả chư Phật Như Lai khen ngợi. Không phải chỉ một mình ngài khen ngợi mà tất cả chư Phật A Di Đà. Cho nên niệm A Di Đà, thì tất cả chư Phật Như Lai đều hoan hỷ, tất cả Bồ Tát đều tán thán, vỗ tay chúc mừng. Chân tướng sự thật là như vậy, đáng tiếc nhiều người không hiểu thấu!
Cho nên, một pháp môn thì dễ dàng được xác định, định có thể khai huệ, huệ có thể trừ phiền não, việc tu học mới có thể thành tựu. Sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ không có bất kỳ pháp môn nào sánh bằng. Thế Tôn dạy trong rất nhiều kinh điển, phàm phù từ lúc mới phát tâm tu hành mãi đến thành Phật, cần bao nhiêu thời gian? Ai cũng biết là ba đại A Tăng kỳ kiếp, nhưng người chân thật nghe hiểu được không nhiều. Ba đại A tăng kỳ kiếp bắt đầu tính từ lúc nào? Tính từ khi mới phát tâm. Ngày nay chúng ta tu hành có tính không? Không tính! Vì chúng ta chưa phát tâm, khởi tâm động niệm vẫn là tự tư tự lợi, chưa phát tâm. Phát tâm là phát tâm Bồ Đề! Khi tâm Bồ Đề vừa phát là đạt quả vị viên giáo sơ trụ Bồ Tát.
A La Hán, Bích Chi Phật còn chưa phát tâm Bồ Đề. Quyền giáo Bồ Tát, bốn giáo của tông Thiên Thai dạy chúng ta, Phật của Tạng giáo, Phật Bồ Tát cũng thông giáo còn chưa phát tâm Bồ Đề. Vậy tâm Bồ Đề đích thực được phát bởi hạng người nào? Đó là viên giáo sơ trụ Bồ Tát. Phát tâm Bồ Đề mới vượt qua mười pháp giới, đến pháp giới nhất chân. Từ đó cho thấy, ba đại A Tăng Kỳ kiếp chỉ viên giáo sơ trụ Bồ Tát là đối tượng chính. Họ sơ phát tâm, cho nên sơ trụ gọi là phát tâm trụ. Bồ Tát sơ trụ đến quả vị Phật, tổng cộng bốn mươi hai cấp bậc, qua ba đại A Tăng Kỳ Kiếp mới có thể hoàn thành. Điều này đức Phật nói rất rõ ràng.
- A tăng Kỳ kiếp thứ nhất là hoàn thành ba mươi cấp bậc: thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, còn gọi là Tam hiền.
- A tăng Kỳ Kiếp thứ hai là thu bảy cấp bậc: từ sơ địa đến thất địa.
- A Tăng Kỳ Kiếp thứ ba là tu ba cấp bậc: Bát địa, Cửu địa, Thập địa.
Tu hành chứng quả không dễ dàng. Những gì chúng ta đã tu ngày nay không tính. Nếu tính từ phàm phu trong lục đạo, mười pháp giới thì thời gian tu hành tổng cộng là vô lượng kiếp như kinh Hoa Nghiêm đã nói, làm sao có thể nói chỉ cần ba A tăng kỳ kiếp? cho dù tu vô lượng vô biên pháp môn cũng không ngoại lệ. Hiểu rõ hết những điều này, chúng ta mới nhận thấy sự thù thắng của Tịnh Độ, mới biết mình trong đời này gặp được pháp môn Tịnh Độ là rất hy hữu, quí báu vô cùng.
Pháp môn Tịnh Độ mang theo nghiệp vãng sinh. Chúng ta trong thế gian có vô lượng nghiệp chướng, chủng tử tập nghiệp, muốn vượt qua sáu đường, vượt qua mười pháp giới, cũng không nên gấp gáp mà có thể mang theo cả nghiệp, có thể không cần dứt phiền não, chỉ cần chuyển tâm niệm Phật A Di Đà. Được sự gia trì theo bổn nguyện của Ngài, chúng ta có thể vãng sanh đến thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là nơi phàm thánh đồng cư, hạ hạ phẩm vãng sanh, không những nhờ sự gia trì của Phật lực mà còn nhờ "Mười hai kiếp hoa khai kiến Phật" của chúng ta. Quán Kinh nói "Mười hai kiếp hoa khai kiến Phật", hoa khai kiến Phật là quả vị Viên Sơ Trụ, tức quả vị của phát tâm Bồ Đề. Chỉ cần mười hai kiếp là tâm Bồ Đề của chúng ta đã phát. Nếu không đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mà ở thế giới này, chúng ta vô lượng kiếp, tâm Bồ Đề không thể phát được. Đến chỗ ngài mười hai kiếp là thể phát tâm Bồ Đề. Sự chênh lệch quá lớn nếu đưa ra so sánh, đó là chưa kể sự gia trì của Phật lực. Tu hành trong môi trường Tây phương cực lạc hiệu quả thù thắng như vậy, từ vô lượng kiếp rút ngắn còn mười hai kiếp. Nhưng trên thực tế không có người nào vãng sanh mà không được uy thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì. Khi có Phật lực gia trì, không cần mười hai kiếp. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta liền làm Phật, tướng mạo dung nhan như Phật. Nguyện thứ bốn mươi tám nói rất rõ, mười phương thế giới chúng sinh đến Tây Phương cực lạc đều là sắc thân Tử Ma vàng ròng, thể chất cơ thể giống như Phật A Di Đà; người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc có tướng mạo hoàn toàn giống như Phật A Di Đà, không thành Phật, tướng mạo chúng ta làm sao có thể giống như Ngài được? Đức Phật A Di Đà đã phát nguyện thứ bốn mươi tám, nếu có một nguyện chưa thực hiện thì ngài không thể thành Phật.
Thế Tôn dạy chúng ta, Phật A Di Đà thành Phật ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đã mười kiếp. Nói cách khác, đại nguyện mà ngài đã phát, mỗi nguyện đều đã hiện thực. Chúng ta niệm Phật tu học Tịnh Độ, phải lấy nguyện thứ bốn mươi tám của Phật A Di Đà làm căn bản. Nếu tương ứng với bản nguyện, chúng ta nhất định phải tin. Còn không tương ứng với bản nguyện, chúng ta có thể không tin. Xem thật kỹ kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối, sẽ phát hiện mỗi câu mỗi chữ đều không rời bốn mươi tám nguyện. Hay nói cách khác, kinh Vô Lượng Thọ là thuyết minh bốn mươi tám nguyện. Chúng ta có thể tin được vì đây là pháp môn hy hữu khó gặp nên thực tập đến không nghi ngờ, không xen tạp.
Thế gian tu hành sợ nhất là xen tạp, quyển Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát nói, ngài dạy người tu hành kiêng kỵ nhất là xen tạp. Tụng kinh xen tạp, niệm chú xen tạp. Nếu tu Tịnh Độ, khóa tụng mỗi ngày đọc kinh Vô Lượng Thọ,...như vậy là xen tạp. Thực tế chỉ cần một loại là đủ. Kinh điển của Tịnh Độ còn không nên xen tạp, huống hồ những kinh điển khác càng thêm hư việc. Tụng kinh Kim Cang còn muốn tụng thêm kinh Địa Tạng, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đọc chú Lăng Nghiêm, niệm Đại Bi Thập Tiểu Chú,...xen tạp nhiều như vậy, phỏng đến khi nào mới được thành tựu?
Nhiều ý kiến cho rằng, đây là khóa tụng gốc của tổ sư đặt ra. Không sai. Khóa tụng gốc của tổ sư đặt, nhưng có phải tổ sư đặt cho chúng ta không? Tổ sư không đặt cho chúng ta mà đặt cho người khác. Cũng giống như thầy thuốc kê toa, toa thuốc của người khác, chúng ta bị bệnh, liệu có dám uống toa của bệnh nhân khác không? Tổ sư là người của thời đại nào? trong bối cảnh nào? Các ngài đặt ra khóa tụng này, chúng ta phải hiểu được. Pháp là thuốc trị bệnh chúng sinh, chúng ta phải xem kỹ càng phương pháp nào có hợp với khế cơ không? có thể trị được bệnh của mình không? Và bệnh của mình là gì?. Bệnh chúng ta là vọng tưởng, tạp niệm, phiền não. Nếu phương pháp này có thật hiệu quả, phiền não dứt sạch, trí tuệ khai mở thì cứ giữ khóa tụng gốc. Còn tụng niệm nhiều năm mà phiền não mỗi ngày tăng trưởng, trí tuệ không mở, không được giác ngộ, giống như bị bệnh lâu năm, uống thuốc không hiệu quả thì phải xem xét lại phương pháp tu học của mình. Hãy thử quan sát thật tỉ mỉ, một bà cụ chỉ niệm thật thà chân thành một câu A Di Đà Phật, liên tục trong khoảng năm năm, bà cụ đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, biết được giờ chết, lại không bị bệnh, đó là hiệu quả thật. Chúng ta niệm nhiều năm nhưng vẫn kém xa họ.
Người ta sinh tử tự tại, còn chúng ta có cầm chắc đối với chuyện sinh tử không? Hiện tại vẫn chưa chắc chắn. Điều này cho thấy phương pháp nhiều người trong chúng ta đã tu học không có hiệu quả, vẫn không giác ngộ. Cho nên khóa tụng càng đơn giản càng tốt, càng đơn giản mới là pháp môn chân thật, pháp môn vi diệu. Kinh điển, chỉ một bộ là đủ, chỉ một bộ có thể thành Phật. Càng nhiều bộ chỉ e gây chướng ngại cho vãng sanh, điều này không thể không biết. Thỉnh thoảng chúng ta xem một chút thì được, có thể giúp đỡ bản thân đoạn trừ nghi hoặc. Còn việc tu chính của mình dứt khoát chỉ là một bộ kinh, một pháp môn, quyết không xen tạp, không gián đoạn, thì công phu mới được đắc lực, mới có hiệu quả, hơn nữa hiệu quả vô cùng rõ rệt, tự mình biết, không cần phải hỏi người khác. Khi vọng niệm ít, tâm phân biệt giảm, chấp trước cũng nhạt đi, đây mới đúng là tu hành tiến bộ, tâm địa chúng ta trở nên tương đối bình tĩnh, tương đối ung dung, cũng tương đối có trí tuệ. Trước đây với người, với việc, với vật, cứ lộn xộn rối tung, bây giờ dần dần rõ ràng, không mơ hồ như trước, đó là dấu hiệu của tiến bộ. Trước đây đọc kinh không hiểu ý nghĩa, thấy người ta chú giải, thì luôn cho ý người ta giải sai, hiểu sai, bây giờ đọc kinh hiểu ý nghĩa, đọc chú giải của đại đức xưa cũng hiểu được ý của họ, đó là hiện tượng của sự tiến bộ. Trước đây nhìn người không biết phân biệt người tốt người xấu, bây giờ dần dần phân biệt được. Trước đây tiếp xúc những sự việc tốt, hoặc giả không tốt, không thấy được, qua mấy năm, nhân quả của những sự việc này liền được tỏ bày, có thể nhìn ra, đây đều là hiệu quả hiện tiền tu học của chúng ta. Cho nên, tu học Phật pháp hiệu quả vô cùng.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn